Phan Bá Phiến (1839 - 1887)
Tháng 5-1885, hưởng ứng hịch Cần vương của vua Hàm Nghi, Nghĩa hội Quảng Nam được thành lập, Phan Bá Phiến trở thành một trong ba nhân vật chủ chốt của phong trào, cùng với Trần Văn Dư và Nguyễn Duy Hiệu.
Ngày 4-9-1885, đơn vị nghĩa quân do ông lãnh đạo đã cùng với các cánh quân của Nguyễn Duy Hiệu, Trần Văn Dư, Hồ Học đánh chiếm tỉnh thành La Qua. Sau khi Hội chủ Trần Văn Dư bị ám hại (13-12-1885), Nguyễn Duy Hiệu được bầu làm Hội chủ, thì ông làm Phó hội, tham gia xây dựng căn cứ Tân Tỉnh ở Trung Lộc (Quế Sơn) trung tâm lãnh đạo cuộc kháng chiến lúc bấy giờ.
Vào giữa năm 1887, quân Pháp phối hợp với quân của triều đình, đã huy động một lực lượng quân sự hùng hậu đánh chiếm Tân Tỉnh. Nghĩa quân đã chống trả quyết liệt, nhưng do quá chênh lệch về trang bị vũ khí và lỏng lẻo về tổ chức, nên liên tục thất bại nhiều trận. Cuối cùng, Nguyễn Duy Hiệu phải giải giáp lực lượng còn lại, cho trở về ẩn dật chờ thời, để tránh tổn thất vô ích.
Trong lúc thế cùng lực kiệt, Nguyễn Duy Hiệu bàn với Phan Bá Phiến: “Nghĩa hội ba tỉnh, ông với tôi thật chủ trương. Việc đã không thể làm, thì chỉ có chết mà thôi. Nhưng hai ta cùng chết một lúc là vô ích. Ông hãy chết trước. Phần tôi, tôi sẽ giải tán Hội, rồi đem thân mặc cho Pháp bắt. Người Pháp tra hỏi, tôi sẽ cực lực giải thoát cho Hội. Một mình tôi chết không đáng tiếc, còn Hội ta sau này có kẻ làm thành chí ta, tức là ta sống đó!”. Trước lời đề nghị và cũng là mệnh lệnh của lãnh tụ, bạn chiến đấu thiết cốt, đã từng hiểu thấu gan ruột của nhau, Phan Bá Phiến khẳng khái nhận lời. Ông cho bày hương án, mặc phẩm phục, đem tất cả sổ sách ra đốt trước mặt lãnh tụ Nguyễn Duy Hiệu và các bạn đồng sự, rồi lạy vĩnh quyết, uống thuốc độc tự vận.
Phan Bội Châu ngợi ca khí tiết của Phan Bá Phiến: “Sống hiếu, chết trung. Vì nước sống đẹp, vì dân chết oanh liệt, ông quá đủ có hai đức sáng và trung kiên”. Hiện nay, trên mặt bia mộ của Phan Bá Phiến vẫn còn lưu lại dòng chữ khắc trên đá: “Thời quai lực kiệt, sát thân thành nhân”.
Ghi nhận những đóng góp của ông, chính quyền thành phố Đà Nẵng đã quyết định đặt tên một con đường mang tên Phan Bá Phiến dài 1.000m, rộng 6m, nối từ đường Ngô Quyền qua khu vực Đồn biên phòng 252 ra đến biển, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà.
Cổng TTĐT thành phố
Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829)
Ông quê làng Bắc Mỹ An, huyện Diên Phước, trấn Quảng Nam, nay là phường Bắc Mỹ An, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Tên thật là Nguyễn Văn Thụy, do kỵ húy mà đổi là Thoại. Thời niên thiếu, Nguyễn Văn Thoại cùng gia đình di cư vào Nam đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), sống tại làng Thới Bình, trên cù lao Dài, nay thuộc huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
Niên biểu Phan Châu Trinh (1872-1924)
Một vài mẩu chuyện về cụ Huỳnh Thúc Kháng
Mối quan hệ giữa cụ Huỳnh Thúc Kháng với Bác Hồ
Có thể nói rằng từ lúc mới bước vào con đường cứu nước, cứu dân cho đến trước Cách mạng Tháng Tám-1945, cụ Huỳnh Thúc Kháng vẫn luôn theo đuổi chủ nghĩa dân quyền đi theo lối cách mạng công khai- và chỉ muốn dựa vào cải cách để đưa đất nước tiến lên, mà công việc trước mắt- theo cụ, là phải lo việc "vớt chìm chữa cháy" trong tình trạng đất nước "vàng đá hỗn hào!tai mắt lầm lạc". Dầu rằng trong khoảng thời gian ấy, càng về giai đoạn sau, nhất là sau khi báo Tiếng dân bị đóng cửa thì cụ càng thất vọng với đường lối mà mình đã đi.
Giới thiệu Danh nhân Quảng Nam Đà Nẵng
Từ năm 1306 là năm hai châu Ô và Lý (trong đó có một phần đất Quảng Nam ngày nay) được nhập vào bản đồ Đại Việt, Quảng Nam – Đà Nẵng bắt đầu giữ vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử của dân tộc.


Chưa có bình luận ý kiến bài viết!