Phạm Phú Thứ (1820 - 1882)
Năm Tự Đức thứ hai (1849), ông được đề bạt về Viện Tập hiền làm chức Khởi cư chú (thư ký ghi những lời nói và hành động của vua), làm việc ở Tòa Kinh diên (phòng giảng sách của vua). Thấy vua thích đi săn, ham mê vui chơi, xa xỉ, lơ là việc triều chính, ông dâng sớ công khai chỉ trích nhà vua với lời lẽ thiết tha, thẳng thắn, và ông đã phải trả giá đắt là bị cách chức, đày khổ sai ở Trạm bưu chính Thừa Nông (phía Nam Huế) vì tội “phạm thượng”. Ông vẫn thản nhiên chấp hành lệnh nhà vua ra đi, lúc rỗi việc thì câu cá, làm thơ vịnh cảnh. Chuyện đến tai Thái hậu Từ Dũ và bà đã khuyên vua ân xá cho Phạm Phú Thứ, triệu ông về kinh, giao chức vụ mới. Năm sau, ông được phái đi công cán ở Quảng Đông để đới công chuộc tội.
Năm 1852, ông được khôi phục hàm Biên tu, năm 1854 cử đi làm Tri phủ Tư Nghĩa (Quảng Ngãi); năm 1855 được đề bạt Viên ngoại bộ Lễ; năm 1856 thăng Án sát Thanh Hóa, rồi Án sát Hà Nội. Năm 1860, được thăng Thị lang bộ Lại, rồi sau đó là Thự tả Tham tri bộ này.
Năm 1863, ông được cử làm Phó sứ cùng với Chánh sứ Phan Thanh Giản sang Pháp thương thuyết nhằm chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, nhưng không có kết quả.
Về đến Huế, ông dâng lên Tự Đức bản tường trình cùng nhiều tài liệu ghi chép những điều đã quan sát được, đặc biệt những phát minh về khoa học kỹ thuật cùng những cảm nghĩ, nhận định về văn minh phương Tây và mạnh dạn đề xuất một phương án canh tân đất nước. Điều đáng tiếc là hầu hết những kiến nghị xác đáng, đầy tâm huyết của ông không được Tự Đức và cả triều đình chấp nhận.
Năm 1865, ông được thăng Thự thượng thư bộ Hộ, sung chức Cơ mật viện đại thần. Năm 1874, được cử làm Thự tổng đốc Hải Yên (Hải Dương, Quảng Yên) kiêm Tổng lý Thương chánh đại thần. Tại đây ông đã có nhiều biện pháp khắc phục nạn đói, nạn cướp bóc của bọn thổ phỉ Tàu Ô, tổ chức khai hoang ở hai huyện Đông Triều và Nam Sách, đặt nha Thương chánh ở Ninh Hải, mở cảng ngoại thương ở Hải Phòng, mở trường dạy tiếng Pháp (đây là trường ngoại ngữ đầu tiên ở phía Bắc và Trung Kỳ).
Năm 1876, ông được thăng Tổng đốc và năm 1878 hàm Thự hiệp biện Đại học sĩ. Năm 1880, bị bệnh nặng ông được triều đình cho về Kinh điều trị. Ngày 5-2-1882, ông qua đời, hưởng thọ 61 tuổi.
Phạm Phú Thứ là một đại thần, một quan cai trị giỏi, một nhà thương thuyết, một doanh điền sứ, một nhà hoạch định chính sách, một nhà khoa học… So với những người cùng thời, ông là người chính trực và có phần vượt trội ở tư tưởng canh tân đất nước với ước vọng đuổi kịp theo trào lưu bên ngoài.
Ngoài bộ Giá Viên thi tập và Tây hành nhật ký, Bản triều liệt thánh sự lược toản yếu, Lịch triều thống hệ niên phả toản yếu, ông còn cho in và xuất bản một số sách chuyên môn, kỹ thuật như: Bác vật tân biên (Sách khảo về khoa học tự nhiên), Khai môi yếu pháp (Phương pháp khai mỏ), Hàng hải kim châm (Kỹ thuật đi biển), Vạn quốc công pháp (Công pháp các nước) v.v…
Ghi nhận những đóng góp của ông, chính quyền thành phố Đà Nẵng đã quyết định đặt tên một con đường mang tên Phạm Phú Thứ dài 120m, rộng 6m, nối đường Bạch Đằng đến đường Trần Phú, thuộc quận Hải Châu.
Cổng TTĐT thành phố
Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829)
Ông quê làng Bắc Mỹ An, huyện Diên Phước, trấn Quảng Nam, nay là phường Bắc Mỹ An, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Tên thật là Nguyễn Văn Thụy, do kỵ húy mà đổi là Thoại. Thời niên thiếu, Nguyễn Văn Thoại cùng gia đình di cư vào Nam đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), sống tại làng Thới Bình, trên cù lao Dài, nay thuộc huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
Niên biểu Phan Châu Trinh (1872-1924)
Một vài mẩu chuyện về cụ Huỳnh Thúc Kháng
Mối quan hệ giữa cụ Huỳnh Thúc Kháng với Bác Hồ
Có thể nói rằng từ lúc mới bước vào con đường cứu nước, cứu dân cho đến trước Cách mạng Tháng Tám-1945, cụ Huỳnh Thúc Kháng vẫn luôn theo đuổi chủ nghĩa dân quyền đi theo lối cách mạng công khai- và chỉ muốn dựa vào cải cách để đưa đất nước tiến lên, mà công việc trước mắt- theo cụ, là phải lo việc "vớt chìm chữa cháy" trong tình trạng đất nước "vàng đá hỗn hào!tai mắt lầm lạc". Dầu rằng trong khoảng thời gian ấy, càng về giai đoạn sau, nhất là sau khi báo Tiếng dân bị đóng cửa thì cụ càng thất vọng với đường lối mà mình đã đi.
Giới thiệu Danh nhân Quảng Nam Đà Nẵng
Từ năm 1306 là năm hai châu Ô và Lý (trong đó có một phần đất Quảng Nam ngày nay) được nhập vào bản đồ Đại Việt, Quảng Nam – Đà Nẵng bắt đầu giữ vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử của dân tộc.


Chưa có bình luận ý kiến bài viết!