Hoàng Diệu (1828 - 1882)
Hoàng Diệu là một vị quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882. Hoàng Diệu còn có tên là Hoàng Kim Tích, tự là Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày 10-2-1828, trong gia đình nho học ở làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nổi tiếng thơ văn từ năm 16 tuổi. Năm 20 tuổi đỗ cử nhân (1848), 26 tuổi đỗ phó bảng (1853); được bổ Tri huyện Tuy Phước, thăng Tri phủ Tuy Viễn (cùng trong tỉnh Bình Định).

 

Do lầm lẫn án tù nên bị giáng chức, đổi về Tri huyện Hương Trà (Thừa Thiên), sau phục chức Tri huyện Đa Phước, rồi thăng Án sát Nam Định, Bố chánh Bắc Ninh. Năm 1877, làm Tham tri bộ Hình, rồi Tham tri bộ Lại, sung Cơ mật viện đại thần.

Năm 1878, làm Tuần vũ Quảng Nam, thăng Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh). Năm 1879 được triệu về kinh, lãnh chức Toàn quyền đại diện triều đình đàm phán với sứ bộ Tây Ban Nha. Năm 1880, được bổ Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội - Bắc Ninh) làm Thượng thư bộ Binh, trông coi cả việc thương chánh. Thuộc phái chủ chiến trong triều đình Tự Đức lúc bấy giờ, ông là người tích cực bảo vệ chủ quyền độc lập của đất nước. Khi nhậm chức Tổng đốc Hà Nội, ông ra lệnh quân sĩ tích cực lo việc bố phòng, đề cao cảnh giác địch. Hoàng Diệu đã mấy lần báo lên triều đình xin cho thêm quân nhằm đối phó lại âm mưu địch và ra lệnh giới nghiêm thông báo đi các tỉnh để kịp đề phòng. Vua Tự Đức lúc này lại hạ chiếu quở trách là “đem binh dọa giặc và xử lý không thích hợp”!

Ngày 25-4-1882, sau 3 giờ đưa tối hậu thư buộc phải đầu hàng, H. Rivière ra lệnh nổ súng tấn công thành Hà Nội. Hoàng Diệu chỉ huy quân sĩ chống trả quyết liệt. Bản thân ông lên mặt thành đốc suất cuộc chiến đấu. Trước sức uy hiếp của giặc, một số quan văn, quan võ bỏ trốn. Có người chạy theo giặc như Án sát Tôn Thất Bá.

Thấy quân Pháp nã pháo vào thành, Tôn Thức Bá hoảng sợ trốn chạy. Sau đó, người này thân tìm đến nơi quân Pháp đồn trú xin thông báo tình hình trong thành hòng mong được người Pháp đoái công. Không những thế, y một mặt dâng sớ lên Vua Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu, một mặt xin với giặc cho y làm Tổng Đốc Hà Ninh.

Một trận kịch chiến xảy ra từ sáng đến trưa. Quân ta, dưới quyền chỉ huy của Hoàng Diệu đã anh dũng chiến đấu, giết chết hàng trăm tên giặc.

Cuộc chiến đang ác liệt thì bất ngờ kho thuốc súng nổ, lửa bốc cháy ngùn ngụt. Đám cháy càng lan rộng, tinh thần quân Việt càng hoang mang, hàng ngũ càng rối loạn. Quân giặc thừa cơ bắc thang trèo vào, phá cổng thành phía tây rồi ồ ạt kéo vào như nước chảy. 
Trong vòng khói lửa ngợp trời ấy, Hoàng Diệu, tay vẫn cầm thanh kiếm tuốt trần, hăng hái xông pha trong mưa đạn.

Dù quyết tâm bảo vệ thành, nhưng trước thế tấn công như vũ bão của quân Pháp và lực lượng quân triều đình ngày càng mỏng hơn, cuối cùng, Hoàng Diệu đành hạ lệnh cho quân lính giải tán để tránh thương vong.

Còn lại một mình, Hoàng Diệu quay vào hành cung cắn đầu ngón tay lấy máu thảo di biểu tạ tội với nhà vua. Trong bức di biểu, Hoàng Diệu viết:
“Thành mất không sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng...”

Sau đó, Hoàng Diệu đi thẳng đến cửa Võ Miếu, cởi chiếc khăn đang bịt trên đầu, treo mình lên cành cây trước miếu mà tuẫn tiết đúng vào giờ Ngọ. Khi ấy, ông mới 54 tuổi .

Khâm phục trước tấm gương quan Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu thà chết chứ không chịu luồn mình dưới chân giặc, nhân dân và sĩ phu Hà thành lập bàn thờ ông bên cạnh vị quan Tổng đốc tiền nhiệm Nguyễn Tri Phương tại đền Trung Liệt trên gò Đống Đa.

Tôn Thất Thuyết – một đại thần nổi tiếng theo đường lối chống Pháp – thương tiếc Hoàng Diệu mà viết lên đôi câu đối:
“Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện
Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm”

Nghĩa là:
“Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước
Bình sinh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm”.

Ngày nay, tên của ông được chính quyền và nhân dân thủ đô Hà Nội đặt cho con đường rất đẹp chạy phía tây thành cổ, song song với phố Nguyễn Tri Phương. Bàn thờ ông cũng được lập bên cạnh bàn thờ quan Tổng đốc tiền nhiệm Nguyễn Tri Phương trên vọng lâu Bắc Môn. Quanh người dân khắp nơi đều tới thắp nhang tri ân hai vị anh hùng quên mình vì thành Hà Nội.

Thấy tình thế nguy ngập đến nơi, không thể giữ được thành, Hoàng Diệu vào Hành cung, thảo di biểu gởi vua Tự Đức, rồi sang Võ miếu, dùng khăn nhiễu bịt đầu, treo mình trên cành táo tự vẫn. Năm ấy ông vừa tròn 54 tuổi. Cái chết của Hoàng Diệu đã gây một sự xúc động lớn trong nhân dân, binh lính và tầng lớp sĩ phu cả nước lúc bấy giờ. Giới sĩ phu Hà thành đã họp nhau lại tại trường Hàng Bông, tổ chức lễ truy điệu người anh hùng rất trọng thể. Có rất nhiều thơ điếu và câu đối tiếp tục ngợi ca con người nghĩa khí. Linh vị ông được thờ tại miếu Trung Nghĩa (Huế) và đền Tam Trung (Hà Nội).

Ngày nay, tên của ông được chính quyền và nhân dân thủ đô Hà Nội đặt cho con đường rất đẹp chạy phía tây thành cổ, song song với phố Nguyễn Tri Phương. Bàn thờ ông cũng được lập bên cạnh bàn thờ quan Tổng đốc tiền nhiệm Nguyễn Tri Phương trên vọng lâu Bắc Môn. Quanh người dân khắp nơi đều tới thắp nhang tri ân hai vị anh hùng quên mình vì thành Hà Nội.
Ghi nhận những đóng góp của ông, chính quyền thành phố Đà Nẵng đã quyết định đặt tên một con đường mang tên Hoàng Diệu dài 1.980m, rộng 10,5m, nối đường Phan Châu Trinh với đường Duy Tân (qua khu vực chợ Mới) ở ngã năm.

Cổng TTĐT thành phố
 

ĐÁNH GIÁ BÀI VIẾT