Phát triển mạnh mẽ nhóm dịch vụ hậu cần để nâng cao giá trị thuỷ sản
Đó là ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại "Hội nghị chuyên đề về giải pháp và chính sách phát triển thủy sản" do Văn phòng Chính phủ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức tại Đà Nẵng với sự tham dự của các lãnh đạo các Bộ, ngành, các địa phương có ngành khai thác thủy sản, ngày 15-4.
 
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị 
 
Xuất khẩu thủy sản tăng 15%/năm
 
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NNPTNN), đến năm 2013, Việt Nam có gần 120.000 tàu cá tham gia hoạt động khai thác thủy sản (trong đó có 28.285 tàu có công suất trên 90CV, chiếm 23,1% tổng số tàu cá), sản lượng khai thác đạt 2,7 triệu tấn/năm. Cùng với đó, sản lượng thủy sản nuôi trồng trong năm qua đạt 3,2 triệu tấn (tăng 13,3 lần so với năm 1990 và 5,4 lần so với năm 2000). Cả nước đã có 583 doanh nghiệp chế biến thủy sản quy mô công nghiệp, trong đó hơn 410 cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm, gần 450 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn sản xuất sạch hơn, được phép xuất khẩu sang các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga....
 
Ngành nông lâm ngư nghiệp đóng góp trên 19% GDP, trong đó kinh tế thủy sản đóng góp 30 - 35%, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành thủy sản từ 8 - 10%/năm so với toàn ngành. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 6,7 tỷ USD, chiếm 24,8% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản. Xuất khẩu thủy sản liên tục tăng trưởng với mức tăng bình quân 15,1%/năm.
 
Bộ trưởng Bộ NNPTNT Cao Đức Phát khẳng định, ngành thủy sản nước ta đã có bước phát triển nhanh, ổn định. Đến nay, tổng sản lượng thủy sản đã đạt xấp xỉ 6 triệu tấn (trong đó sản lượng nuôi trồng chiếm tỷ trọng 54,2%); tổng số lao động nghề cá khoảng trên 4,5 triệu người. Thủy sản vươn lên trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó nổi lên trước hết là chất lượng tàu cá với 99% tàu đóng từ gỗ; 85%-90% tàu cá sử dụng động cơ từ các thiết bị cũ/thiết bị giao thông đường bộ; trang thiết bị bảo quản thô sơ, chỉ có dưới 10% tàu có thiết bị bảo quản đảm bảo chất lượng hải sản cho chế biến và xuất khẩu nên tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch còn cao (từ 25-30%). Gần 1 triệu lao động đánh cá nhưng chủ yếu là lao động phổ thông và hầu hết chưa được đào tạo nghề. Hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu kỹ thuật cho nuôi trồng thủy sản; phòng, chống dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản còn hạn chế; trong cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu, tỷ trọng sản phẩm thủy sản có giá trị gia tăng cao đạt thấp, mới chiếm khoảng 20-25%. Sản phẩm cá tra xuất khẩu chủ yếu vẫn là hàng đông lạnh dưới dạng phi lê được xuất khẩu thông qua các công ty trung gian.
 
Bên cạnh đó, nhiều chính sách phát triển ngành vẫn còn thiếu đồng bộ, bất cập, không triển khai hoặc hiệu quả không cao, chính sách ngư dân cần thì đang thiếu, những chính sách đã có thì ngư dân khó tiếp cận được.
 
Tăng cường các chính sách phù hợp hỗ trợ ngư dân bám biển
 
Tại hội nghị, đại diện lãnh đạo các tỉnh thành ven biển như Quảng Ninh, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Bình Định, Cà Mau… đã đưa ra những giải pháp nhằm phát triển ngành thủy sản bền vững, đẩy mạnh khai thác thủy sản xa bờ, giảm tổn thất sau thu hoạch và gắn với tổ chức lại sản xuất trên biển và đào tạo cho ngư dân. Đa số các địa phương đề nghị phải tổ chức sản xuất theo liên kết chuỗi giá trị sản phẩm, từ ao nuôi, ngư trường đến thị trường tiêu thụ, chuyển mạnh cơ cấu từ chế biến thô sang các sản phẩm giá trị gia tăng và đa dạng hóa các sản phẩm chế biến phù hợp văn hóa, thị hiếu từng thị trường.
 
Ông Văn Hữu Chiến- Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng cho biết, để nâng cao hiệu quả khai thác hải sản, giảm thiểu rủi ro về người và tài sản trên biển cho ngư dân, thành phố đã ban hành các chính sách hỗ trợ tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn; ngư trường khai thác; hỗ trợ vốn để mua ngư lưới cụ, trang bị phục vụ sản xuất; hỗ trợ nhau về mặt tinh thần; hỗ trợ kết nối thông tin giữa tàu với tàu, giữa biển với đất liền và được đất liền hỗ trợ thông tin về dự báo thời tiết, hướng dẫn phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn. Tại  thành phố Đà Nẵng đã hình thành các đội tàu cùng nghề 10 - 15 chiếc/đội để hỗ trợ nhau khai thác trên biển, đầu tư đóng mới 130 - 150 tàu có công suất từ  200 CV/chiếc trở lên và cải hoán nâng cấp ít nhất 800 tàu cá có công suất nhỏ, đưa tổng công suất tàu cá Đà Nẵng lên 30.000 CV; các đội tàu dịch vụ hậu cần nghề cá từ 5 -10 chiếc có công suất từ 800 - 1000 CV/chiếc, cung cấp nguyên nhiên liệu và thu mua sản phẩm ngay trên biển. Chủ tịch UBND thành phố Văn Hữu Chiến cho rằng phải tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng nghề cá, trước hết là cảng cá, nơi neo đậu tránh bão cho tàu thuyền có công suất lớn cũng như các mô hình hợp tác, liên doanh, liên kết khai thác. Đồng quan điểm này, đại diện lãnh đạo tỉnh Bình Định nhấn mạnh việc phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần nghề cá, đầu tư xây dựng cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão, bến cảng mà trọng tâm là cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển nghề cá; bên cạnh những chính sách chuyển đổi nghề và sinh kế cho các ngư dân nghèo khai thác ở vùng biển ven bờ, hỗ trợ con em gia đình ngư dân nghèo đi học tại các trường đào tạo nghề thủy sản.

 

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát đề xuất một số chính sách mới, như Quỹ tín dụng 3.000 tỷ đồng cho vay ngắn hạn phục vụ sản xuất đối với tàu đánh bắt xa bờ với mức vay trung bình 200 triệu đồng/chuyến biển. Trước mắt, tập trung tàu đóng dịch vụ hậu cần đi kèm các tổ đội sản xuất trên biển và các tàu khai thác đối tượng giá trị cao, mức vay 80% giá trị con tàu; lãi suất ở mức ưu đãi 2,5%/năm.
 
Kết luận tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách, như: hỗ trợ ngư dân tham gia khai thác trên các vùng biển xa; hỗ trợ khắc phục rủi ro, thiên tai trên biển; hỗ trợ việc áp dụng quy trình sản xuất nông nghiệp tốt trong thủy sản; ưu tiên nguồn vốn tín dụng ưu đãi cho các địa phương vay không có lãi suất để đầu tư hạ tầng sản xuất. Đồng thời, các Bộ ngành cần phải hoàn thiện các hướng dẫn hỗ trợ nguồn tín dụng để đóng mới tàu cá xa bờ, kể cả tàu vỏ thép, các tàu lớn, đặc biệt là các tàu lớn cung cấp các dịch vụ hậu  cần cho các tàu thuyền của ngư dân, hỗ trợ kinh phí bảo hiểm thân tàu và bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm y tế cho thuyền viên, giảm tổn thất sau thu hoạch, khắc phục rủi ro, thiên tai trên biển, đầu tư trang thiết bị thông tin nhằm khuyến khích ngư dân khai thác hải sản xa bờ.
 
CÔNG TÂM
ĐÁNH GIÁ BÀI VIẾT

Các tin khác